Tổng quan về nhiên liệu sinh học
Chương trình phát triển nhiên liệu sinh học ở Việt Nam
Ðể bảo đảm an ninh năng lượng, bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn tại các vùng sâu, vùng xa, ngày 20-11-2007, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Ðề án phát triển nhiên liệu sinh học đến năm 2015, tầm nhìn 2025”. Ðề án bao gồm hoạt động của các cơ quan chính phủ và doanh nghiệp nhằm xây dựng lộ trình sử dụng nhiên liệu sinh học (NLSH) của Việt Nam, khung pháp lý, các chính sách khuyến khích sản xuất, xây dựng mô hình thử nghiệm sản xuất và phân phối NLSH cũng như các dự án đầu tư của Chính phủ để phát triển NLSH đến năm 2025.
Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam là một tập đoàn kinh tế hàng đầu hoạt động trong lĩnh vực năng lượng cho phát triển đất nước đã xây dựng “Kế hoạch và Chương trình triển khai các dự án NLSH của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam”, triển khai Ðề án phát triển NLSH của Chính phủ, thúc đẩy quá trình sản xuất và phân phối NLSH tại thị trường Việt Nam, khẳng định vai trò chủ đạo của PetroVietnam trong quá trình hình thành và phát triển thị trường NLSH đầy triển vọng.
Nhiên liệu sinh học với an ninh năng lượng và môi trường
Năm 2007, sản lượng khai thác của PetroVietnam là 20 triệu tấn dầu thô. Chiến lược phát triển ngành dầu khí Việt Nam đến năm 2015 và Ðịnh hướng đến năm đề ra mục tiêu “Phấn đấu đạt sản lượng khai thác giai đoạn 2006 – 2025 đạt 25 – 38 triệu tấn quy dầu/năm; trong đó sản lượng khai thác dầu thô giữ ổn định ở mức 18 – 20 triệu tấn/năm”. Bên cạnh đó, PetroVietnam cũng tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư vào lĩnh vực năng lượng điện và các nguồn năng lượng khác.
Theo báo cáo của Viện Năng lượng, ở nước ta trong hơn 10 năm qua, việc khai thác năng lượng sơ cấp tăng trung bình 16,4%. Sử dụng năng lượng sơ cấp tăng bình quân hơn 10%. Tốc độ tăng trưởng năng lượng tăng 11%, cao hơn tăng trưởng kinh tế 1,46 lần. Với tốc độ tăng trưởng kinh tế và với trữ lượng năng lượng hóa thạch hiện có thì khả năng khai thác dầu khí cũng chỉ đáp ứng trong vòng 30-40 năm. Do vậy, cần sớm tìm ra nguồn nhiên liệu thay thế, và NLSH là một lựa chọn tất yếu.
Sự phát triển không đồng đều giữa các khu vực dẫn đến di dân từ nông thôn ra thành thị với tốc độ ngày càng cao cùng với đô thị hóa nhanh và sự gia tăng các phương tiện giao thông làm không khí bị ô nhiễm trầm trọng. Hiện tại mức độ ô nhiễm tại các thành phố lớn của Việt Nam, đặc biệt là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã ở mức báo động. Báo cáo triển vọng môi trường toàn cầu 4 do Chương trình Môi trường Liên hợp quốc (UNEP) công bố ngày 26-10-2007 đã đánh giá Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là hai trong số sáu thành phố ô nhiễm nhất trên thế giới.
Sử dụng NLSH pha vào xăng dầu sẽ giúp cải thiện vấn đề ô nhiễm môi trường nhờ giảm thiểu đáng kể các loại khí thải như CO, SO2, hạt bụi và khí CO2. Mô hình thành công của các nước như Bra-xin sẽ giúp Việt Nam học tập rút kinh nghiệm để giảm bớt tác hại của khí thải đối với môi trường.
Với hơn 70% dân số sống tại nông thôn và hơn 40% GDP là từ nông nghiệp, Việt Nam cơ bản vẫn là nước nông nghiệp. Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị còn rất lớn và ngày càng có xu hướng mở rộng. Trên lĩnh vực xóa đói giảm nghèo, mặc dù có những thành tựu rất lớn và được thế giới ca ngợi nhưng số lượng người nghèo tại nông thôn vẫn còn khá cao. Ðặc biệt, một bộ phận không nhỏ đồng bào ta, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi, vùng sâu, vùng xa đời sống còn khó khăn. Phát triển sản xuất, nguồn nguyên liệu đầu vào cho sản xuất NLSH sẽ tạo thu nhập cho nông dân, góp phần xóa đói, giảm nghèo tại các khu vực miền núi, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là vấn đề hết sức cấp bách, vừa mang tính kinh tế và xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta.
Các nhà máy ê-ta-nôn dùng sắn lát sẽ giúp người trồng sắn có đầu ra ổn định. Theo tính toán, mỗi nhà máy khi đi vào sản xuất sẽ thu mua ổn định cho khoảng 15 nghìn hộ trồng sắn tại các xã vùng cao của các tỉnh miền núi phía bắc, Tây Nguyên và Ðông Nam Bộ. Các nhà máy sẽ hỗ trợ nông dân về giống cũng như kỹ thuật canh tác mới với mục tiêu tăng thu nhập cho hộ nông dân, tăng sản lượng hàng hóa trong khi không tăng diện tích canh tác. Cây sắn sẽ không chỉ giúp xóa, đói giảm nghèo ở các vùng sâu, vùng xa mà còn giúp cải thiện cuộc sống với nguồn thu nhập ổn định cho phần lớn nông dân ở các địa phương.
Dự báo nhu cầu NLSH đến năm 2025 dựa trên giả định tăng trưởng tiêu thụ xăng, dầu là 8,5%/năm với tỷ lệ pha ê-ta-nôn bắt buộc là 5% trong giai đoạn 2012-2014 và 10% cho giai đoạn 2015-2025. Theo ước tính, năm 2012 nhu cầu ê-ta-nôn là 300 triệu lít, trong đó nhu cầu tại thị trường miền nam là 180 triệu lít/năm, đến năm 2015 là 457 triệu lít, năm 2020 là 687 triệu lít và năm 2025 là một tỷ lít.
Khuyến khích đầu tư sản xuất NLSH
Ngày 20-11-2007, Chính phủ đã ra Quyết định số 177/2007/QÐ-TTg phê duyệt “Ðề án phát triển NLSH đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2025” do Bộ Công thương chủ trì. Mục tiêu phát triển cho từng giai đoạn từ nay cho đến năm 2025 như sau:
Giai đoạn 2007 đến 2010: Hoàn thiện khung pháp lý để khuyến khích sản xuất và sử dụng NLSH; xây dựng lộ trình sử dụng NLSH; làm chủ công nghệ từ nguyên liệu, sản xuất và pha trộn; đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên sâu về NLSH; quy hoạch và phát triển vùng nguyên liệu cho NLSH cùng với xây dựng mô hình sản xuất NLSH quy mô 100.000 tấn E5 và 50.000 tấn B5, tương đương với 0,4% nhu cầu xăng dầu cả nước vào năm 2010, bảo đảm cung cấp 8% nhu cầu cả nước về E5 và B5.
Từ năm 2011 đến 2015: Sản xuất được các phụ gia, men và vật liệu cho sản xuất NLSH; phát triển sản xuất và sử dụng NLSH thay thế nhiên liệu truyền thống; phát triển các giống nguyên liệu mới có năng suất cao; xây dựng mô hình sản xuất NLSH, tương đương với 1% nhu cầu xăng dầu cả nước vào năm 2015, bảo đảm cung cấp 20% nhu cầu cả nước về E5 và B5.
Giai đoạn 2016 đến 2025: Xây dựng ngành NLSH tiên tiến, hiện đại và bền vững; bảo đảm cung cấp 100% nhu cầu cả nước về E5 và B5.
Theo Quyết định số 177/2007/ QÐ-TTg, trong giai đoạn 2007-2015, sản xuất NLSH được xếp vào danh mục lĩnh vực được đặc biệt ưu đãi đầu tư. Các doanh nghiệp đầu tư sản xuất NLSH được miễn, giảm thuế thu nhập đối với sản phẩm là NLSH. Tại Nghị định số 24/2007/NÐ-CP, Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp. Các doanh nghiệp NLSH được hưởng các ưu đãi tối đa về thuê đất, sử dụng đất trong thời gian 20 năm. Nguyên liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị phục vụ cho việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ sản xuất NLSH được miễn thuế nhập khẩu.
NLSH là năng lượng mới nên thuộc danh mục đặc biệt ưu đãi đầu tư, NLSH cũng thuộc ngành công nghiệp mũi nhọn giai đoạn 2007 – 2010, tầm nhìn đến năm 2020 (theo Quyết định số 55/2007/QÐ-TTg) được hưởng các chính sách ưu tiên và được Nhà nước hỗ trợ một phần chi phí đối với các dự án bảo vệ môi trường tại các cơ sở sản xuất. Theo Thông tư số 02/2007/TT-BTM ngày 2-2-2007 của Bộ Thương mại, dự án đầu tư vào ngành năng lượng mới (NLSH) được hưởng chính sách miễn thuế nhập khẩu cho nguyên liệu sản xuất, vật tư và linh kiện phục vụ cho sản xuất.
Chính phủ cũng đang nghiên cứu một hệ thống chính sách đồng bộ, khuyến khích sản xuất, phân phối và sử dụng NLSH. Dự kiến, trong năm 2010, Chính phủ sẽ ban hành các chính sách này:
Chính sách ưu đãi đầu tư ở địa phương: UBND các tỉnh, căn cứ vào Luật Ðầu tư và các văn bản của Nhà nước, chính sách khuyến khích đầu tư vào tỉnh và địa điểm xây dựng các nhà máy, các dự án đầu tư sản xuất ê-ta-nôn được hưởng các ưu đãi: Thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% trong 15 năm đầu khi dự án bắt đầu có thu nhập, và 25% được áp dụng trong thời gian hoạt động còn lại của dự án. Doanh nghiệp được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong bốn năm đầu hoạt động kể từ khi dự án bắt đầu có lãi; được giảm 50% số thuế phải nộp trong chín năm tiếp theo; được miễn tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê đất và được miễn tiền sử dụng đất trong suốt thời gian hoạt động… Ngoài ra, doanh nghiệp đầu tư còn được hưởng ưu đãi chi phí quảng cáo: trong vòng ba năm kể từ khi dự án đi vào hoạt động, được hỗ trợ 59% chi phí quảng cáo sản phẩm trên các phương tiện thông tin đại chúng, được hỗ trợ kinh phí đào tạo nguồn nhân lực, thông qua mở các lớp bồi dưỡng ma-két-tinh, nghiên cứu thị trường, nghiệp vụ, hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO.
Thanh Tùng (Nhân dân)